Blogroll

Pages

Wednesday, June 4, 2014

Tính chất các sao

Bài viết phân loại chi tiết các sao theo tính chất đặc trưng chung





MỤC LỤC

-----oOo-----





                                                                                                                                                                           PHẦN 1          
GIỚI THIỆU CHUNG

Là các sao có cùng chung một tính chất giống nhau. Dễ hiểu, trong nhóm học TỬ VI chính các bạn, các bạn có 1 tính chất giống nhau là thích môn này. Và khi các bạn ngồi lại với nhau, đề tài các bạn là TỬ VI, chỉ nói TỬ VI mà thôi.
Rồi khi bạn ra đường, gặp 1 người khác nói chuyện thể thao, chính trị, tôn giáo… đề tài nào phù hợp với bạn, bạn sẵn sàng tham gia khác đề tài thì thôi.
Và mỗi ngôi sao trong TỬ VI cũng có nhiều tính chất. Tính cách nổi bật của nó do có các ngôi sao khác hội họp với nó. Giống như tổ hợp số trong Toán học. Nhờ nắm được tinh cách chung đo, giúp ta đánh giá rất là nhanh. Yếu tố nào nổi bật yếu tố nào không. Tuy có đấy nhưng không nổi bật.


                                                                                                                                                                           PHẦN 2          
NHÓM VƯỢT, THOÁT, TRỐN, CHẠY

Lợi cho sự Đi Lại là chính. Khi nguy hiểm là trốn chạy, đào tẩu, tị nạn, lánh tránh…

               2.1.  Các Chính Tinh thiên về chuyển động

VŨ KHÚC: là ngôi sao ưa đi lại nhất trong toàn bộ TỬ PHỦ VŨ TƯỚNG LIÊM và có thể đi rất xa, mất tăm mất tích. Các sao còn lại trong nhóm đó không thích chuyển động. Đặc tính là ưa đi một mình. Đừng quên kiểm tra THAM LANG nhé. Nếu có phải luận khác.
THAM LANG: là kẻ hám đi, ưa đi ké, đi nhờ, cho tui đi với, được tham gia, tham dự, tham quan, kể cả họp hành… Thuộc loại đi ké, đi tìm kiếm cái gì đó như đi tìm vàng, tìm kiếm việc làm, tìm người… Có thể đi 1 mình hoặc đi chung.
THIÊN CƠ và THIÊN ĐỒNG: THIÊN CƠ là sao cơ hội được đi và luôn luôn có THIÊN ĐỒNG là cùng đi với ai.
Vídụ, “Chàng đi cho thiếp đi cùng.. Đói no thiếp chịu lạnh lùng… kệ tui”. Đặc tính cùng đi với ai. Người đồng hành, kẻ đi chung xe cộ…
CỰ MÔN: là sao cãi nhau xong là đi, là ngôi sao Gần và Xa. Khi gần có thể sờ mó được, khi xa thì xa lắc, xa lơ.. Đặc tính tuy xa cũng lên tiếng cho người ở lại biết. Khác với VŨ sống chết chẳng ai hay. Không thèm liên hệ.
Trên là các sao có khuynh hướng đi lại. Và nguyên tắc chính tinh và Bàng Tinh luôn luôn phối hợp với nhau, khi Bàng Tinh cũng ưa đi lại gặp được chính tinh cùng nhóm, không còn là khuynh hướng, hay thien về. Trở thành xu hướng (tức nghiêng hẵn 1 bên) và ta quyết đoán theo xu hướng ấy.

               2.2.  Nhóm Bàng Tinh thiên về chuyển động

Nhóm Bàng Tinh sau đây phối hợp với chính tinh tạo ra sự chuyển động.
ĐÀO HÀ (xem phần nhóm Can Chi): chủ tạo ra sự chuyển động, như:“Tui ưa đi chơi thì tui đi”. “ Tui ưa học xa thì tui đi, học gần tui không chịu”. Càng mạnh hơn khi có VIỆT., vì ViỆT vừa chủ phát sinh ra, vừa chủ sự vượt qua. Như “Qua núi, qua sông, qua đồng luá chin… Ta nghe…”. Hôm nào, bạn thấy có người chèo ghe, thuyền, tàu chạy, đó là cảnh Đào Hà (chuyển động trên sông nước). Các văn sĩ mô tả nào là bèo giạt hoa trôi… Ngày xưa đa phần di chuyển đi lại trên sông hồ.
PHI PHỤC THANH + LƯU HÀ: Tên huyền bí hóa là rồng chuyển, rồng bay. Tên ứng dụng là “Thu xếp hành trang để đi”. Dich ra như sau: Em (bố, mẹ, anh…) ơi! Tức là THANH LONG (chủ tiếng nói) thu xếp hành trang (BINH HÀ) để ra đi PHI HÀ. Có trở lại không, có chứ là PHI PHỤC HÀ. Ưa ca nhạc thì có đây;
Đây gói hành trang, xếp lại cho tròn, để anh đi nhé…
MÃ PHƯỢNG KHÁCH: Là hình ảnh người hành khách bon bon trên xe bây giờ, người kỵ mã ngày xưa với con ngựa đang cất vó. Nhưng MÃ KHÁCH chưa chắc đã đi, có khi chỉ là kẻ sửa xe, kẻ bán ve, kẻ ở lại chứng kiến cảnh người đi.
Tính chuyển động mạnh dễ gặp thêm sao THIÊN KHỐC, chủ sự than thở, ai cũng thế đi đến đâu cũng kể lại nổi vất vả đi lại, bị chém chặt dọc đường. Thôi nằm, ngồi nghỉ đi, tội chưa vất vả quá.

               2.3.  Cung quản lý sự đi lại

Cung THIÊN DI nổi tiếng quản lý sự đi lại, giao tiếp. Thân đóng ở dễ trôi theo dòng đời. Mạnh nhất khi có các chính tinh vừa kể, mạnh hơn nữa khi có các bộ sao vừa kể. Và cứ the, có những người cả cuộc đời từ đi đến đi. Đi vòng quanh cả thế giới.
Và xem kìa, Có người chạy (LƯU HÀ) tị nạn (chính trị, kinh tế…). Ủa! sao mà chạy nhiều thế. Tai họa đến mà không chạy sao được. Thất trận không đương cự nổi phải chạy thôi. Có trốn (ĐÀO HOA) nhớ ẩn núp (PHỤC BINH) cho kỹ nhé.
Và khi có nhiều Sát tinh ông CỰ MÔN không đương cự nữa, chay. Ông VŨ KHÚC tị nạn, ông THAM LANG này còn chạy mau nữa. CƠ ĐỒNG cho tui theo với, đồng cam cộng khổ. Và những gì bạn thấy, bạn nói, bạn làm điều có trên TỬ VI cả.
Mong sao các bạn có các cách chuyển động êm đềm vui vẻ, không bị uy lực của SÁT TINH KỴ HÌNH. Vì khi thấy KHÔNG KIẾP có khi bị áp bức, cưỡng bức phải đi, có khi muốn đi lại không được và KỴ HÌNH là do vi phạm mà phải đi.

               2.4.  Công thức đoán chuyển động

Mệnh
Có các chính tinh THAM, CỰ, CƠ) + Bàng Tinh (LONG PHI HÀ, ĐÀO HÀ, MÃ PHƯỢNG KHÁCH đầy đủ bộ, 1 trong 3 bộ). Ta gọi Mệnh có tính ưa chuyển động.
Thân
C các sao kể trên, y như Mệnh là Thân bị động, Thân tại Thiên Di cung mặc dù Mệnh không mấy thích đi. Ví dụ, Mầy phải theo gia đình chứ, chả lẽ mầy ở lại quê hương ai nuôi mầy. Thân càng bị động hơn khi có thêm các nhóm sao vừa kể.
Hạn động
Hạn gặp các nhóm sao vừa kể, hạn đến đó kích thích rất mạnh, tính ưa thích phiêu bồng của PHI LONG HÀ, hay ưa thích đi lại của MÃ PHƯỢNG KHÁCH.

               2.5.  Thực hành

Bạn tìm các điểm chuyển động mạnh nhất của năm Nhâm Thìn. Tại Mão cung có bộ VIỆT HÀ ĐÀO, tại Tị có bộ PHI LONG HÀ. Tại 3 cung Thân Tý Thìn (3 cung tuổi rất nhiều người) đều có bộ PHƯỢNG MÃ KHÁCH
Kết luận. Những ai có Đại Hạn, Thiên Di cung tại Mão và Tị năm này chuyển động rất mạnh. Tất nhiên Đại Hạn đó vốn đã động rồi lại càng động đậy hơn, đi càng xa hơn.
Ta gọi là Thiên Di cung động đi lại. Hoặc Đại Hạn động đi lại. Và Tiểu Hạn cũng có cách động đi lại cố định sẵn. Lại có 3 Hạn đều động đậy. Muốn yên thân chẳng được.
Đính kèm trong F1 là cuộc đời trôi giạt sớm của Hoàng Hậu Thuận Thiên. Trong đó có cả cảnh chạy giặc của bà. Một người có PHƯỢNG MÃ KHÁCH Hạn đến ĐÀO HOA trôi. Hết


                                                                                                                                                                           PHẦN 3          
NHÓM SAO ẨN, LỘ

Là những sao ưa thích cuộc sống êm đềm không muốn giương ra, không thích lộ mặt, không thích sự ồn ào. Từ đó ta có những ẩn cư, ẩn sĩ, cho dù sống trong thành phố họ vẫn là người ưa thích trầm lắng, ngại với sự nổi bật.
Một người có chính tính ưa ẩn lại đi với Bàng Tinh như thế, luận đoán là người có tính ẩn. Gặp hạn cùng nhóm sao ẩn, tính ẩn dật càng thêm cao.
Việc phân loại nầy giúp ta luận đoán thêm chính xác. Tính đắc dụng của sao tại Mệnh và tại Hạn.

               3.1.  NHÓM SAO ẨN

              3.1.1.  Chính tinh ưa ẩn

TỬ VI: là ngôi sao ưa kín đáo từ ăn mặc, cho đến chỗ ở. Kín cỗng cao tường. Là ngôi sao chỉ huy nhưng ưa thích trong soái phủ chỉ huy mà thôi. Tam hợp với TỬ VI còn có VŨ KHÚC
VŨ KHÚC: một sao cũng ưa lánh tránh mọi người khi cần thiết.
THIÊN PHỦ: cũng là một sao thuộc nhóm ẩn, cẩn thận, ý tứ trong cách ăn ở, ăn mace kể cả lời nói.
Hay nói cách khác nhóm TỬ PHỦ VŨ TƯỚNG LIÊM thuộc nhóm ẩn. Tính cách của nó thể hiện rõ khi đi với nhóm Bàng Tinh ưa thích ẩn sẽ kể dưới đây.
THÁI ÂM: cũng âm thầm không kém TỬ VI nhưng luôn luôn có THIÊN LƯƠNG chủ phơi bày nên tính ẩn không cao bằng. Nhất là khi THÁI ÂM nằm hoàn toàn trong bộ CƠ NGUYỆT ĐỒNG LƯƠNG cuộc sống ưa an tĩnh hưởng phúc.

              3.1.2.  Bàng Tinh ưa ẩn

TUẦN: ưa ở bên trong như trong nhà, trong cơ quan, đối nội không đối ngoại.
ĐÀ LA: ưa chìm chứ không ưa nổi bật, thích phía sau chứ không giương lên trước dẫn đầu.
THÁI TUẾ: là ngôi sao có tính nghiêm dùng thái độ bày tỏ không ưa sự ồn ào như ĐÀO HOA
CÔ QUẢ: là sao có tính cô độc ưa lẻ loi một mình..
Khi bạn thấy chính tinh ưa ẩn đi với nhóm Bàng Tinh cùng nhóm. Bạn quyết đoán là ưa ẩn data. Cũng thế, Mệnh người ưa ẩn hạn đến chính tinh, Bàng Tinh cùng nhóm tự nhiên họ rút lui. Gợi ý nhé, Trương Lương rút lui khỏi cuộc chơi chính trị, điều đó có thật không, ta điều tra sự việc ấy. Ông B hạ cánh có an toàn không… Ông C sau khi thôi làm tổng thống bị lôi ra xét xử về tội…
Ngoài ra cũng có 1 câu phú liên quan đến cách này.
“KHÔI VIỆT đa văn ngộ ĐÀ KỊ Thiên Di dật sĩ”.
Có nghĩa tại Thiên Di cung có bộ KHÔI VIỆT KỊ ĐÀ là người ẩn sĩ.
Giải thích, Thiên Di cung là nơi giao lưu với đời, nhưng đi với 4 sao trên không ưa hơn thua. Người có có bộ KHÔI VIỆT tại Di tất là người có tài (vì Mệnh dễ có KHÔI VIỆT tọa thủ). Đi với KỴ có tính hơi kỳ khôi (tức là KỴ KHÔI), thêm ĐÀ LA (cách KỴ ĐA đố kị và cản trở) nữa càng thêm chán. Ẩn thân hay hơn, hơn thua mà làm gì.
Như giải thích ở trên, ĐÀ LA ưa ẩn. Nhưng bạn phải biết rằng, khi Di có ĐÀ tức Mệnh có KÌNH hội họp, tức là dạng người ưa giương lean. Khi kết hợp thành bộ nhị ám (KỴ ĐÀ) tính cản trở rất mạnh, dễ chiêu lấy thị phi, phiền toái.

               3.2.  NHÓM SAO LỘ

              3.2.1.  Chính tinh ưa Lộ

Bao gồm các sao LƯƠNG (phơi bày), THÁI DƯƠNG (dương ra)

              3.2.2.  Bàng Tinh ưa Lộ

Bao gồm các sao: KÌNH DƯƠNG, TRIỆT

              3.2.3.  Lưu ý

TRIỆT ưa lộ ra nhưng gặp THÁI DƯƠNG lại gây xung đột mâu thuẩn (2 sao khoe xung nhau, ê nhìn gì dữ vậy mầy?)


                                                                                                                                                                           PHẦN 4          
NHÓM SAO ƯA THAY ĐỔI

               4.1.  Chính tinh

PHÁ QUÂN: là sao ưa thay đổi nhất, sẵn sàng đập phá, bỏ đi, xóa đi… để thay đổi. Vì thế nó rất kị sao LỘC TỒN, sao này có tính bảo thủ rất là cao, và LỘC TỒN là sao chủ tồn tại, cho nên mâu thuẫn gay gắ, LỘC TỒN luôn luôn có sao QUỐC ẤN hỗ trợ nên thế của LỘC TỒN rất mạnh. Vậy thì bí quyết nằm ở đâu? Nằm ở điểm PHÁ QUÂN cần gặp ĐẠI HAO chỉ có thế thôi.
THIÊN CƠ: là sao chủ thời cơ, thời vận, cơ hội tốt đẹp… luôn luôn có tam hợp THIÊN ĐỒNG chủ có phúc, hoán cải, canh cải. Dễ gặp THIÊN LƯƠNG chủ may mắn. Từ vị trí THIÊN CƠ là mạnh nhất, vì đây nhị hợp luôn luôn có PHÁ QUÂN
Cách CỰ CƠ ngộ song HAO được ca ngợi chẳng qua là gặp ĐẠI HAO. Hình thành cụm từ mật trên TỬ VI là “CƠ ĐẠI” là cơ hội thay đổi rất lớn, nếu thấy THIÊN LƯƠNG là quyết đoán là may mắn… vân vân, nếu thấy KHOA QYỀN LỘC lại càng tốt vì sự thay đổi ấy đưa đến thành công, thành đạt lại thêm tiền là HÓA LỘC, thêm quyền là HÓA QUYỀN, thêm KHOA lại sự càng thêm lớn.

               4.2.  Bàng Tinh

ĐẠI HAO: Bàng Tinh chủ sự thay đổi là ĐẠI HAO chủ sự thay đổi, thay thế. Đi với cát tinh có nghĩa là sự thay đổi ấy là tốt đẹp. Đi với KHÔNG KIẾP KỴ HÌNH có nghĩa là bị ép buộc phải thay đổi.
Lưu ĐẠI HAO đóng ở đâu cung ấy có sự thay đổi. Ta đã biết ĐẠI HAO không đóng tại Mộ cung. Nhưng từ các cung khác ĐẠI HAO nhìn thấy các cung này. Ví dụ, Quan Lộc tại Thìn, Lưu ĐẠI HAO tại Thân như thế Quan Lộc cung cũng bị biến động thay đổi.
Lưu ĐẠI HAO càng thay đổi mạnh khi có thêm THIÊN VIỆT. Chủ phát sinh sự thay đổi, hoàn cảnh tình thế, tình hình buộc lòng phải thay đổi. Ví dụ cho rõ, tự nhiên công ty của mình thành lập tổng công ty, vai trò của mình được nâng lên.
Đang yên vui, bỗng nhiên khu vực của mình bị quy hoạch, thế là mọi việt rối tinh cả lên. Tốt hay xấu tùy thuộc vào hung, cát tinh mà luận.
ĐẠI HAO + THIÊN VIỆT: phát sinh sự thay đổi, chủ đổi mới. Một số nước năm Tân Mão bị biến động dữ dội do bộ KHÔI VIỆT ĐÀO ĐAI xuất hiện tại trục Tý Ngọ. Cho nên Đại Hạn của 1 số người bị thay đổi tốt có xấu có do Đại Hạn họ đóng tại đó. Câu này giúp các bạn đi theo hướng tiên tri.
Nếu thấy Lưu ĐÀO HOA là tự tạo ra sự thay đổi. Có nghĩa tôi thích thì tôi ưa thay đổi, do chán việc, chán người thay đổi công việc. Do thừa tiền thay đổi lại nhà cửa cho thích hợp với cuộc sống mới.

               4.3.  Tính chất thay đổi khi phối hợp giữa Chính Tinh và Bàng Tinh

Ta cần biết. CƠ và PHÁ là 2 sao luôn luôn nhị hợp.
Nếu CƠ đi với TỒN thì PHÁ tất đi với ĐẠI và ngược lại. Bạn có thể kiểm tra để rút kinh nghiệm.
Nếu PHÁ đi với TỒN thì CƠ đi Với ĐẠI.
Mệnh có sao này hạn đến sao kia tính thay đổi rất mạnh. Tức là Mệnh PHÁ đến hạn CƠ và ngược lại là Mệnh CƠ đến hạn PHÁ. Hoặc Đại Hạn có PHÁ Tiểu Hạn có CƠ, hoặc ngược lại.
Câu hỏi đặt ra. Bạn hãy tìm vị trí thay đổi mạnh nhất năm Nhâm Thìn?
Đáp án chính xác là với nam nhân là cung Thân, với nữ nhân là cung Dần. Vấn đề còn lại đó là cung gì? (Mệnh, Điền, Tài Quan…). Mạnh nhất chính là cung Đại Hạn của bạn đóng tại đó. Đừng quên cung Đại Hạn là cung Mệnh thứ 2. ý nghĩa của bản cung (tức Mệnh Tài, Nô, Di…) rất quan trọng. Từ đó ta đoán là thay lòng đổi dạ, thay thầy đổi chủ, thay mới đổi cũ, thay vợ đổi chồng… Đó là đi sâu vào chi tiết.
Mệnh có THAM SAT được kể như có PHÁ QUÂN.
Mệnh có THIÊN CƠ hội họp được kể như THIÊN CƠ. Kể cả VCD có THIÊN CƠ xung. Đừng quên đối cung, tức là cung xung chiếu với cung đang luận. Ví dụ với Mệnh là Thiên Di cung, với Đại Hạn tại Tật cung xung chiếu là cung Phụ Mẫu. Nếu cung Phụ Mẫu có thay đổi thì ta là kẻ nhìn thấy mà thôi.


                                                                                                                                                                           PHẦN 5          
NHÓM SAO GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO

               5.1.  CÁC NGÔI SAO CƠ BẢN

              5.1.1.  Chính tinh

Tất cả các Chính tinh đều có khả năng giáo dục Một vài chính tinh điển hình. Như: PHÁ QUÂN chủ gắn bó với học trò. Tình sư đệ. THẤT SÁT chủ khảo sát, giám sát, quan sát việc học tập. THAM LANG chủ tham khảo, tham cứu thêm sách vở, lòng ham học TỬ VI, VŨ KHÚC là những câu hỏi, toán đố, biên soạn đề thi, liên quan đến thi cử so tài... LIÊM TRINH là theo dõi việc học tập... THIÊN PHỦ chủ phán xét của lời thầy. THIÊN TƯỚNG chủ tình sư đệ. Nhóm CƠ NGUYỆT ĐỒNG LƯƠNG tất nhiên phù hợp với nghề giáo vì tính hiền hòa của bộ sao này, đối với học trò đây là nhóm sao hiền lành, thông minh. CỰ MÔN là sao ăn nói càng cần thiết hơn, vì đây là nghề cần đến miệng lưỡi. Và THÁI DƯƠNG càng đắc ý của ngành cao quý này.

              5.1.2.  Bàng Tinh

TUẦN: sao TUẦN chủ sự được giáo dục, dạy dỗ… đứa bé có sao này hội họp thường là ngoan tuân theo, tiếp thu tốt những lời giáo huấn của Cha Mẹ trong gia đình và Thầy Cô nơi học đường. Trọng đạo hiếu nhân nghĩa, lễ trí tín. Lấy chữ Trung làm gốc vì thế đi với một số chính tinh vô hại còn làm đẹp thêm lẫn cho nhau. Còn chủ sự hấp dẫn lôi cuốn của việc học. Còn chủ sự thâu nhận học trò.. Sao này chiếm 2 cung chiếu xuống 6 cung khác, uy lực đến 8 cung. Nó là cái vòng tròn, khuôn viên nhà trường, nề nếp của gia đình là câu người ta thường nói “trong vòng gia giáo”. (xem lại bài TUẦN)
Còn là cái vòng cương tỏa của cơ quan, đoàn thể… khi bạn bước chân vào đấy. Buộc phải tuân thủ những nội qui, kỷ luật. Trong quân đội, tôn giáo cái vòng này rất khắc khe. Sao Tuần hội họp tại cung mệnh rất là tốt. Khi bạn bước chân ra đường phải tuân thủ những quy định của pháp luật, không những về giao thong và những cái khác nữa.
ĐÀO HOA
Một sao TUẦN tốt là đem những điều giáo dục đó lại dạy dỗ những người khác.
ĐÀO HOA là đào tạo từ học hành đến ngành nghề, từ những ngành học bậc cao học tập quân sự đến nấu ăn, may vá. Đào tức là huấn huyện để trở thành tốt đẹp. Và người có sao ĐÀO thường là kéo tay hay làm, ta thường gọi là hoa tay. Thật ra chẳng có hoa tay như trên các ngón tay. Nếu có cũng chỉ là trùng hợp mà thôi. Đã khéo tay lại được khéo léo đương nhiên giỏi.
Chủ sự đào tạo, uốn nắn, hun đúc mà nên người... Phù hợp với chính tinh TỬ VI, THÁI DƯƠNG nhóm CƠ NGUYỆT ĐỒNG LƯƠNG. Mệnh có dễ được đào tạo tốt, đồng thời có năng khiếu đào tạo lại kẻ sau. Thiên về đào tạo nghề.
ĐÀ LA
Chủ sự hướng dẫn, dẫn dắt… tất nhiên la mắng là không thể tránh khỏi. La mắng trong học hành là chuyện tự nhiên mà thôi. Không la mắng chứng tỏ không đoái hoài đến.
Đó là ba sao cơ bản của ngành giáo dục. Ta dễ dàng tìm thấy các bộ 2 sao như Tuần Đà, Tuần Đào, Đà Đào. Cá biệt bộ ba sao Tuần Đà Đào.
Trên là 3 sao quan trọng trong ngành giáo dục là các sao cơ bản dễ được dạy dỗ, đào tạo, hướng dẫn nên người và tạo ra lớp người kế thừa cho xã hội. Các sao trợ lực giúp chúng ta khẳng định, cũng như thụ đắc nền giáo dục là nhóm Văn Tinh như mục tiếp theo của bài viết.
Từ ba sao này ta có các cụm từ như, giáo dục, đào tạo hướng dẫn thành con người có ích trong xã hội. Đó là cụm từ ta thường nghe cùng 1 lúc đề cập đến 1 lúc 3 sao vừa kể.

               5.2.  CÁC NHÓM SAO HỖ TRỢ

XƯƠNG KHÚC: Việc học ấy có liên quan đến sách vở.
KHÔI VIỆT: Việc học đó có tính nâng cao như đại học, cao học. Lợi cho thi cử tức dễ có thứ bậc cao. Là ngôi sao cao quý lại uy nghi làm tăng giá trị của các bậc Thầy lên nhiều lần.
HÓA KHOA: Có tính chuyên môn về một ngành. Như Khoa Văn, Khoa Điện. Chủ Khoa giáo, Khoa học, Khoa bảng nhưng cái dễ gặp nhất là gia giáo. Ngày xưa việc học hành không thông dụng như bây giờ. Không phải ai có Hóa Khoa là thường có bằng cấp cao họ chỉ hưởng chữ gia giáo mà thôi. Trong cuộc sống họ làm việc rất khoa học.
KỴ KHOA: liên quan đến Hóa học.
KÌNH DƯƠNG: chủ khen thưởng tán dương khuyến khích việc học tập. Đồng thời là cây bút hay nhất là đi với XƯƠNG KHÚC, giúp ta khẳng định cây bút đó viết về văn nghệ (bạn phải hiểu là văn chương, văn học và nghệ thuật).
HỎA LINH: Có tính chuyên môn cũng như sao Khoa nhưng chuyên môn hơn. LINH TINH lợi cho sự lanh lợi trong học tập, thi cử. Sao đầu óc lanh lẹ thế, hỏi là trả lời ngay. Nó còn lợi cho viết văn, làm thơ... là cái hồn trong văn nghệ. Nhiều bức tranh như có hồn, nhiều câu thơ hàm chứa nhiều tình ý... Còn chủ tính chuyên môn cao, và tinh luyện như văn ôn võ luyện, nếu không luyện tập sẽ bị phai mờ theo thời gian. HỎA TINH là sự nhiệt tình của bậc làm thầy và sự cuồng nhiệt của học sinh. Sao này cũng có tính chuyên môn cao rất cần có sao KHOA đi kèm mới hay, Mệnh có SÁT PHÁ THAM lại càng cần thiết hơn nữa. Lòng nhiệt tình khi khám phá sự hiểu biết. Ngoài ra HỎA LINH còn liên quan đến các ngành như sau;
HỎA TINH: có liên quan đến các ngành cơ khí, luyện kim, xăng dầu.
LINH TINH: có liên quan đến ngành điện, hoặc hiện tượng tự nhiên, thiên nhiên.
TRIỆT: chủ kiến thức, sự hiểu biết khi đi với các sao kể trên, phải đi chung như thế mới hay. Nếu không có các sao trên, TRIỆT ví như bỏ ngoài tai những điều giáo huấn, như nước đổ lá môn.
Là sự hiểu biết, kiến thức. Từ đó loại trừ ra những cái sai lầm, ngộ nhận mà tuổi ấu thơ tự suy, tự tưởng tượng, hoặc người lớn hướng dẫn không đúng. Cho đến hôm nay vẫn có người tin rằng mưa là do con rồng phun nước. Hừ, không có con rồng sao người ta nói vòi rồng kìa.
THIÊN HÌNH: chủ sự nghiêm nghị, trừng phạt, phương pháp giảng dạy, các luật lệ trong văn học, Như luật chính tả, luật thơ Đường như ngũ ngôn. Công thức như công thức tính diện tích... Bởi thế Hình đi với XƯƠNG KHÚC, đi với KHOA là rất hay.Có câu “HÌNH ngộ Hóa Khoa chung thân vô tai” (suốt đời không tai nạn). Giải thích theo kiểu có thần thánh che chở là ấu trĩ. Đây là bộ sao Khoa Học và Phương Pháp. Vì thế khó gặp tai nạn, các chất dễ nổ, dễ cháy, dễ va chạm sinh lửa gây nổ. Đạn bom quá hạn không dùng đến phải hủy nó đi... Chung thân vô tai là thế, chứ không phải là anh ngon, cho người khác một tát tai là có hữu tai ngay. Bây giờ chẳng còn thần thánh nào cứu anh nổi, chỉ có bộ Đồng Lương cứu giải mà thôi. Mà Đồng Lương là đồng tiền chứ có gì đâu.
“Tìm sin lấy đối chia huyền, cos thì 2 cạnh kề huyền chia nhau. Còn tang ta hãy tính sau. Đối trên kề dưới chia nhau rõ ràng” (cotang thì ngược với tang). Như thế là biết phương pháp giáo dục dạy cho người ta dễ nhớ. Chỉ ngần ấy thôi mà không thuộc thì ăn roi cũng là THIÊN HÌNH, ngày xưa thầy giáo bắt học trò quỳ xơ mít là chuyện bình thường, hôm nay có bạn không biết xơ mít là cái gì. Cứ mua trái mít về ăn là biết. “Sông Cầu, sông Lục, sông Thương. Ba sông họp lại tuôn vô Thái Bình” người viết mới học bài này gần đây thôi, năm 1959 chư mấy.
THÁI TUẾ: Là ngôi sao ngôn ngữ, sự đáng kính cần có của người thầy. Cần có ngôi sao này hội họp ở Mệnh. THÁI TUẾ là kẻ cao tuổi, ông Thầy thường là cao tuổi. THÁI TUẾ còn là ngôi sao của bậc làm thầy đủ mọi ngành nghề.
Bài tập là các bạn thử tìm vị trí nào trên niên can Nhâm Thìn. Vị trí nào chịu sự giáo dục đào tạo mạnh nhất.
Vị trí Dân có TUẦN ĐÀ. Vị trí Mão có TUẦN ĐÀO. Trên 12 cung có 1 vị trí không lệ thuộc vào 3 sao này là cung Thân.


                                                                                                                                                                           PHẦN 6          
NHÓM SAO TẦM QUAN TRỌNG

Các sao TUẦN, TRIỆT, KHÔI VIỆT, THÁI TUẾ, HỒNG LOAN, ĐẠI HAO thuộc nhóm sao có tầm quan trọng. Tuỳ thuộc Hung, Cát, Hỉ Tinh để luận đoán như đại quan, đại sự, rất to lớn về chức vụ, về vui mừng,...
Căn cứ vào nhóm sao chủ tầm quan trọng để kết luận sự việc, sự cố, sự tình, chức vụ,...
TUẦN: chủ quan trọng. Như nhân vật quan trọng, sự việc nghiêm trọng, bệnh tật trầm trọng… đi với cát tinh đoán là tốt, đi với hung tinh đoán là xấu sự việc, sự cố xấu rất đáng quan tâm. Giá trị như chữ “tổng”, tổng giám đốc. Tất nhiên TUẦN kỵ 1 số sao. TỬ VI, THIÊN PHỦ, THIÊN TƯỚNG, ÂM DƯƠNG sáng
TRIỆT: khi tốt của nó là được quyền ngoại lệ miễn trừ, như miễn trừ ngoại giao, bất khả xâm phạm thân thể, nơi ở. Khi xấu bị loại trừ, rất kỵ thêm HÓA KỴ đồng cung như một dấu chéo trên chân dung. TRIỆT rất kỵ đồng cung với TỬ VI, THIÊN PHỦ, THIÊN TƯỚNG, ÂM DƯƠNG sáng.
KHÔI VIỆT: chủ bộc phát lớn. Như bộc phát công danh tài lộc, bộc phát tai hoạ, dịch bệnh. Chủ to lớn như quan lớn, nhà to, tội lớn...Chủ đứng đầu, cầm đầu, đầu sỏ, vượt trội hơn người. Giá trị như chữ “VIP” khi đi với cát tinh. Đi với Hung tinh là tên đầu sỏ.
ĐẠI HAO: chủ to. Như quan to, đại náo thiên cung, đại hỉ sự, đại tang... Đi với Quyền tinh, Văn tinh, Hỉ tinh đều hay. Đi với Sầu tinh nỗi buồn càng to lớn. Đi với Sát tinh gây ra thảm khốc.
HỒNG LOAN: chủ lớn như; nói lớn, chức vụ lớn, bằng cấp lớn, vui mừng lớn, tai hoạ lớn. Trong phú TỬ VI thường hay nhắc đến bộ HỒNG KHÔI vì nó mang ý rất là to lớn. Hồng đã là lớn rồi Khôi lại là to. Bộ sao này mang ý rất to, to lớn. Từ đó đi với Cát tình càng đẹp đi với Hung Sát tinh cái họa càng thêm to.
THÁI TUẾ: chủ rất. Đi với ĐẠI HAO chủ rất to.Chú ý không gặp HỒNG LOAN. Đi với KHÔI VIỆT chủ bộc phát rất lớn, đôi khi thái quá vì thế kỵ gặp thêm HÌNH. Đi với TUẦN chủ rất quan trọng làm tăng tính quan trọng của TUẦN lên một bậc.
HÓA KHOA: cũng chủ sự việc hóa ra to lớn. Đây là sao nâng cấp cho HÓA QUYỀN, HÓA LỘC lên một bậc rất cao. Cần xa lánh KHÔNG KIẾP, vì nó hàm ý Kiếp nạn rất to đang chờ. Tất nhiên đi với nhóm sao văn chương là hợp cách.
QUỐC ẤN: có thể nói sao này có tầm quan trọng lớn nhất, mọi việc tốt xấu liên quan đến quốc gia, quốc tế nhất là thời buổi bùng nổ thông tin hiện nay.
Ví dụ: TUẦN đi với QUYỀN là nắm giữ những quyền quan trọng nếu có thêm KHOA, tức là quyền rất to, nếu có thêm ĐẠI, THÁI, HỒNG (3 sao vừa kể chỉ có thể tối đa là 2)lại gia thêm QUỐC ẤN. Ta đoán quyền thế rất là to lớn, tập trung nơi người này. Từ đó ta phận biệt được cũng là sao HÓA QUYỀN. Từ những người bình dân làm các công việc tự do, có uy tín (tức là có HÓA QUYỀN) đến những người nắm vận mạng đất nước ảnh hưởng đến cả thế giới. Đây là ví dụ với Quyền, với các sao thị phi tinh, tai nạn cũng thế.
Thực hành với Nhâm Thìn Nam ta có;
Vị trí cung Hợi có LỘC TỒN, tức có QUỐC ẤN hội họp lại được tăng cường thêm KHÔI VIỆT HỒNG TUẦN. Sự việc, sự cố tại cung Hợi có tầm quan trọng.
So với vị trí THÁI TUẾ cung Thìn chỉ có ĐẠI HAO hình thành cách ĐẠI THÁI tầm quan trọng thấp hơn cung Hợi rất nhiều. Càng quan trọng bao nhiêu đi với Cát tinh rất tốt, đi với Hung tinh càng thêm xấu. Mệnh và nhất là Đại Hạn những ai đóng tại cung Hợi năm này (tức năm Nhâm Thìn) rất nổi bật, nổi bật chuyện gì chúng ta căn cứ vào cung ấy.
Thực hành tiếp với Quý Tị Nam ta có;
Vị trí LỘC TỒN của niên can này không có gì đặc biệt ngoài các bộ sao cơ hữu của nó. Riêng vị trí Tị Dậu Sửu có bộ THÁI (có Tứ Linh) gia thêm KHÔI VIỆT. Lợi cho nhân cách. Nếu Mệnh đóng tại đây rất là tốt. Vị trí này được kể là hay nhất, có tầm quan trọng.
Nếu tìm nỗi buồn lớn nhất lại là 3 cung Hợi Mão Mùi.
Và cũng bạn lý luận như thế tự tìm trên bộ Phi Tinh những vị trí quan trọng.


                                                                                                                                                                           PHẦN 7          
NHÓM SAO MÀU SẮC

               7.1.  NHÓM SAO MÀU SẮC

ĐÀO HOA: chủ sắc màu. Chủ sắc như từ sắc độ. Màu tím ta có từ tím nhạt, tím xanh đến tím đỏ. Tùy thuộc sắc độ mà có. Trong kỹ thuật số màu tím Huế có pha sắc xanh. Trong hình có 2 cô gái mặc đồ tím Huế chỗ có độ sáng mặt trời đo được 6A33C1 đến 753CCC chỗ tối đo được 3711A1 và 340F6F. Những số liệu cần cho những người xử lý ảnh màu.Trong học viên chúng ta cũng có người làm công việc ấy.
Trước đây kỹ thuật số chỉ có 3 màu căn bản đỏ, vàng, xanh biển. Mỗi màu có 64 sắc độ. Với 3 màu, ta có 64x64x64= 26214 nhưng gọi lên là 265.000 màu. Về sau thêm màu xanh cây nằm giữa màu vàng và xanh biển, nếu tính có 64 sắc độ ta lại có. Công thức 64 lũy thừa 4 là trên 16 triệu màu. Màu sắc gần giống như thật. Họa sĩ là người sử dụng màu sắc và chưa chắc ngon hơn người thợ nhuộm, chỉ màu đen thôi họ có tới 40 màu. Các văn sĩ cũng không có chữ để tả vì thế, người ta dùng mã số để gọi.
Vì thế có lúc ĐÀO HOA gặp ĐÀO HOA xung gây (điều này dễ gặp tại Đại Hạn) nên tranh cãi về sắc độ trong sơn nhà cửa, màu áo… Tôi nói xanh rêu mà sao lại xanh này./ Đây cũng là xanh rêu nhưng rêu vàng, rêu già. Màu vàng Trung Quốc khác với màu vàng Nhật, Mỹ loạn cào cào cả lên. Trước mặt người viết hiện giờ vẫn còn để cái thiệp cưới có màu đỏ tươi rất hợp nhãn, nhưng khó chịu với màu đỏ bầm. Chỉ nói ĐÀO HOA là sắc độ của màu các bạn ít quan tâm, nhưng tỉ mỉ như thế có bạn cho là dài dòng. Và ta trở lại với ĐÀO PHI của F1 với nghĩa màu sắc ấy nay đã tàn phai, tàn phai nhan sắc và gìn giữ cho hương sắc ấy bền lâu lan tỏa mãi. Tùy thuộc vào Cát tinh. Nhan sắc không tàn phai.
Đặc biệt ĐÀO HOA luôn luôn phối hợp với các màu Hồng HỒNG LOAN, xanh THANH LONG, vàng LƯU HÀ và cả đen ĐẠI HAO. Không bao giờ gặp trắng BẠCH HỔ. Chỉ có lưu phi tinh này gặp sao cố định kia mà thôi.
THANH LONG: chủ màu xanh, nếu thanh không phải là xanh, can cớ gì gọi là THANH LONG, gọi Hắc Long, Hoàng Long, Xích long… Vì THANH LONG liên quan đến màu xanh phù hợp với nhóm CƠ NGUYỆT ĐỒNG LƯƠNG chủ nhà cửa ruộng nương. Màu xanh bên khóm nhà cảnh cửa bình yên thường thấy. Vì thế THANH LONG phù hợp với các nhóm sao trừ nhóm SÁT PHÁ THAM. Màu xanh biểu tượng cho sự bình yên, hòa bình. Trong nhóm 3 sao THANH PHI PHỤC khi bình yên có nghĩa là như thế, quân lính quay trở về nhà, vũ khí PHI LIÊM đã tan đi (cất đi) có chăng là các nông cụ mà thôi.
Màu xanh tương phản với màu đỏ. Các họa sĩ chỉ cho các màu này gần nhau trong quảng cáo, tranh nghệ thuật dùng rất cẩn thận. Van Gogh là điển hình, thấy hoa đỏ cây xanh, sợ chi không mô tả cho giống. Tả thật gây rắc rối không ít. Cách HỒNG THANH (HỒNG LOAN THANH LONG) có tính phức tạp vì xung đột màu sắc, lại xung đột về âm lượng, 1 sao ưa yên gặp 1 sao sao ưa ồn ào nhóm HỒNG ĐÀO. THANH LONG nói 1 đường HỒNG LOAN lại la một ngã. Vì thế cái dễ gặp nhất là phải thanh minh, thanh nga trở lại. Tùy theo Hung, Cát tinh mà vấn đề có khi quá phức tạp, hoặc đơn giản chỉ có thế thôi.
Trên TỬ VI các màu như Xanh THANH LONG giao hội được với Trắng BẠCH HỔ, dễ gặp Vàng LƯU HÀ và Hồng HỒNG LOAN. Nó không giao hội sẽ rắc rối khi gặp Đen ĐẠI HAO. Màu đen lấn át màu xanh. Cũng như THANH LONG là tiếng nói mà ĐẠI HAO là tiếng rống, tiếng hét. Một người đang nói bỗng nhiên hét lên là có vấn đề. Cũng như một người đang la hét với cường độ cao bỗng dưng tắt tiếng, rõ ràng có vấn đề nghiêm trọng...
HỒNG LOAN: con chim hồng, sợi tơ hồng, dòng máu nóng trong cơ thể là đây. Vì thế đi với các nhóm sao thường hợp trừ nhóm SÁT PHÁ THAM có tính phức tạp. Đi với CƠ NGUYỆT ĐỒNG LƯƠNG cũng hay nhưng hợp nhất là bộ PHỦ TƯỚNG để gặp cách “Má em hồng anh thấy mà thương”. Người ta thường nói má “hồng đào”
Đi với ĐÀO HOA kết thành bộ ĐÀO HỒNG nổi tiếng
BẠCH HỔ: là màu trắng biểu tượng cho sự trong sạch, đến cả trong sạch trong tâm hồn. Còn là màu bày tỏ nỗi buồn, đến nỗi buồn tang tóc. Vì thế màu trắng được dùng cho lá cờ tang màu trắng viền đen, mang ý nỗi buồn to lớn.
BẠCH HỔ có thể giao hội với các màu đen ĐẠI HAO, màu xanh THANH LONG, không gặp nhóm ĐÀO HỒNG HÀ.. Rất kỵ khi có Lưu HỒNG LOAN, Và nếu Mệnh BẠCH HỔ kỵ đáo hạn HỒNG LOAN.
ĐẠI HAO: là màu đen là màu của sự quan trọng. các quan lớn ngày xưa thường mặc áo màu này. Đời Đường màu đen để mặc cho các quan tri phủ, tri huyện. Màu đen không giao hội với màu xanh (THANH LONG). Đi với Trắng (BẠCH HỔ) chủ hắc bạch phân minh. Đi với đỏ HỒNG LOAN thiên về cờ bạc nếu có SÁT PHÁ. Đi với màu vàng LƯU HÀ chủ sự đại bất ngờ. Xấu tốt tùy thuộc vào hung, cát tinh
LƯU HÀ: màu vàng là LƯU HÀ mặc dù nó mang ý nghĩa rõ nhất, là dòng sông đang chảy. Có lẽ nó chảy giữa đất đai nên phải mang màu này. Thật ra có thể đặt tên nó là Hoàng Hà nhưng các yếu tố, lưu lại, chuyển động… lại không còn nữa. Cuối cùng người xưa chọn được chữ Lưu là hợp lý nhất.
Màu vàng tượng trưng cho nhà vua với lưu danh thiên cổ. Màu vàng không giao hội với trắng BẠCH HỔ, vàng và trắng khó làm nổi bật lẫn nhau. Đi với THANH LONG là hay nhất, nhì là HỒNG LOAN. Các bức đại tự hoành phi thường dùng nền đỏ chữ vàng.
Trên là 5 màu căn bản của TỬ VI, dựa trên ngũ hành xanh thuộc Mộc, vàng thuộc Thổ, trắng thuộc hành Kim, đỏ thuộc Hỏa, đen thuộc hành thủy.

               7.2.  MÀU GÌ HỢP VỚI BẠN

Bạn thích màu gì, hợp với màu gì nhìn vào TỬ VI mới biết. Đừng quan niệm sai lầm. Giáp Tý Hải Trung Kim là trắng, rồi cho rằng tất cả mọi người cùng tuổi ấy chỉ có màu Kim (trắng là hợp). Làm gì có chuyện lạ như vậy những bạn cùng trang lứa (đồng tuế) của ta không nhất trí khi chọn cùng 1 màu, không cần làm trắc nghiệm chúng ta cũng biết điều đó. Điều này tìm thấy trên TỬ VI, hoặc tìm thấy trong vô thức của mỗi người… “Ngày xưa xa xôi em rất yêu màu tím… nhưng từ khi quen anh, anh bắt xa màu tím”. Vì anh lý luận rằng màu tím buồn, tím cả đời ta. Vì màu tím pha trộn giữa 2 màu xanh biển và đỏ HỒNG THANH. Chỉ xung đột mâu thuẫn sắc màu mà 2 đứa xa nhau. Chuyện có phải bịa đâu mà có thật. Có người viết thành ca nhạc, và chẳng cần xem bói, cố vấn trong vô thức của bạn luôn luôn yêu thích 1 sắc màu nào đó, bạn chẳng giải thích được vì sao… Cuộc sống thực tế, xung đột mâu thuẫn vì màu sắc rất là nhiều.
Nếu thấy màu nào đi với (đồng cung) KHÔNG KIẾP KỴ HÌNH, Thị Phi tinh đó là màu bạn không phù hợp. Màu nào đi với Cát tinh là hợp với số phận của mình. Một số quốc gia dùng màu cờ gây bất lợi như một điềm báo cho cả 1 dân tộc. Đó là Nhật với màu đỏ mặt trời trên nền trắng (xem bài HỒNG LOAN kỵ BẠCH HỔ). Với những tai họa động đất hầu như thường trực, rồi bom nguyên tử. Thụy Sĩ cũng thế, trở thành một nước bị “bắt buộc” trung lập, nếu không trung lập thì họa nó đến. Lá cờ hội Hồng Thập Tự này xuất hiện là nơi đó vừa trải qua thảm họa. Dẫu sao khi gặp nạn thấy lá cờ của hội này, cũng là niềm an ủi lớn. Nhưng đừng gặp nó trong cuộc đời mới là may mắn… Màu sắc đem lại an lành, dễ chịu như màu áo Brazil


                                                                                                                                                                           PHẦN 8          
CÔ ĐỘC TINH

Cô độc tinh hay gọi nhẹ nhàng hơn là cô đơn tinh. Các sao cô độc còn mang ý có nhưng mà không gần gủi bị xa cách trong lòng. Giữa cha mẹ và con cái ít cảm thông gần gủi, có anh em nhưng không viếng thăm nhau… tất nhiên cũng ít giao du với bạn bè, hoặc có cũng chiếu lệ thì thấy xa cách không phù hợp, cảm giác lạc lõng giữa số đông.

               8.1.  CHÍNH TINH CHỦ CÔ ĐỘC

Bao gồm các Chính tinh: VŨ KHÚC THẤT SÁT CỰ MÔN
VŨ KHÚC: giá trị như QUẢ TÚ chủ ít, cô đơn. Vì nó là sao chủ một khúc thôi, một đoạn thôi trong tình cảm gây bất lợi. Càng bất lợi hơn đối với nữ, đàn ông bỏ vợ hay mất vợ dễ xây dựng lại gia đình, nhưng đàn bà là 1 vết thương lòng nhức nhối. Và con cái cũng là trở ngại, ai đó có thể thương mình nhưng liệu có thương con mình không. Vô phước gặp đứa con khó thương làm căng thêm cuộc sống... Trong các trường hợp Mệnh có VŨ, Phối cung lại có THẤT SÁT chủ mất, chủ đơn chiếc PHÁ QUÂN chủ bỏ. Trường hợp Mệnh có PHÁ SÁT bỏ và mất trong lúc Phối cung lại có VŨ ngắn ngủi. Trong các trường hợp này gặp thêm LINH chủ lẻ loi, đành ca bài “Sầu lẻ bóng” nghe thúi ruột. Nếu có KHỐC nữa sẽ thông cảm, mau hiểu chữ khóc là từ nôm biến dạng từ Hán từ KHỐC. Và dễ dàng chấp nhận THIÊN KHỐC là thiên về khóc lóc, chứ làm gì có trời khóc.
THẤT SÁT: chủ đơn chiếc. Chính là sao chủ chữ “độc” như độc thân, độc có nghĩa là già mà không con cái. THẤT SÁT là kẻ bị mất, bị đoạt mất, từ dễ bị mất cha mẹ hoặc cha mẹ đánh rơi (đánh lạc), đến cố ý đánh rơi. Luôn luôn có PHÁ QUÂN, khi PHÁ QUÂN xấu là kẻ bị bỏ rơi, ruồng bỏ… Những trẻ con bị bỏ rơi, đa phần là thuộc nhóm SÁT PHÁ. Nếu để ý bạn sẽ thấy nhóm SÁT PHÁ THAM là con của CỰ MÔN. CỰ ca bài ly dị thế là bọn SÁT PHÁ THAM không có cha.
CỰ MÔN: Tiếp theo là nhóm CỰ MÔN, mà CỰ MÔN là con THIÊN TƯỚNG nhưng cung Phụ Mẫu lại không thương, không bao che, bị cự ly ngay từ tấm bé.
Rất kỵ gặp thêm các sao cô đơn khác. Như LINH, CÔ QUẢ, TANG, KHỐC.

               8.2.  SÁT TINH

LINH TINH: Chủ lẻ loi, sao này ưa lịnh lạc và cũng là ngôi sao “lạnh lùng”, lạnh lẽo, lạnh nhạt.
HỎA TINH: cũng có phần gây ra cô độc do lòng nóng nảy, dễ nổi giận nhưng không mang tính lẻ loi như LINH.

               8.3.  Bàng Tinh

Bao gồm các CÔ THẦN QUẢ TÚ
CÔ chủ con mất cha mẹ. QUẢ chủ vợ mất chồng.
Người đàn ông mất vợ, không vợ gọi là quan, quan quả chỉ những người cô độc không vợ không chồng. Nó là nhóm sao cô độc, gây ra sự cô đơn chính hiệu.
Bộ LỘC TỒN CÔ QUẢ
Chủ độc đinh. Bộ sao này mang ý “tồn tại rất là ít”, chủ sự hiếm muộn, hiếm người. Rất dễ gặp cảnh độc đinh như chỉ có 1 con trai mà thôi. Ngày xưa quan niệm “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, 1 nam viết là có, 10 nữ viết là không, đối với họ quan niệm thờ tự rất quan trọng.
Bộ TANG KHỐC
Hình thành bộ sao này, chủ tang tóc và khóc lóc gây ra mất người thân, đóng ở các cung chỉ về người gây bất lợi về nhân số. Các tuổi Dần Thân đều có bộ sao này ở Thìn Tuất. Nữ Mệnh có sao này ở Mệnh rất bất lợi. Vì lúc ấy ở cung Tử Tức lại có bộ HỒNG QUẢ. Nếu ở Mệnh có câu: “Tang Môn THIÊN KHỐC phận hèn, Hoặc là làm lẻ hoặc phen ly tình”. Ngoài ra còn có câu “TANG MÔN thậm khổ THIÊN LA, Xuân Huyên lãnh đạm”, mô tả tuổi Dần, đến cha mẹ cũng lãnh đạm, vì người đội sao Tang tóc khóc lóc trên đầu, khiến bố mẹ cũng ngán. Đặc tính của TANG MÔN là chôn như ta đã biết. Nó rất kị ở các cung chỉ về người.
Bộ HỒNG QUẢ
Đây là cách được đặt tên “sở ai giả” kẻ buồn thương. Luôn luôn gặp trong các tuỏi Dần Thân Tị Hợi. “Sở ai giả HỒNG LOAN tứ mộ phu cung”. Tức Mệnh ĐÀO HOA tại Mão Dâu bị cách này. Góa chồng hay không có chồng ngày xưa gọi là quả. Góa chồng ở vậy thờ chồng là sương phụ.
Bộ MÃ TANG CÔ
Chủ đi lại một mình, có tính cô độc. (F4 có bài viết về về bộ sao này)

               8.4.  NHÓM SAO HỖ TRỢ LÀM TĂNG TÍNH CHẤT CÔ ĐỘC CHO NHÓM CÔ ĐỘC TINH

Các sao hỗ trợ bao gồm: THIÊN KHÔNG, TUẦN TRIỆT, CỰ MÔN
THIÊN KHÔNG: chủ không có, còn chủ vong tức là mất. Đóng ở các cung về người gây tác dụng xấu.
TUẦN TRIỆT: là các vong tinh, mạnh là TRIỆT chủ mất. TRIỆT đóng tại các cung về người làm cho cung này mất người như các sao THẤT SÁT, TANG MÔN, về mặt tình cảm hài long có 1 nửa, dễ bỏ nhau, bôi xóa nhau. TUẦN mang ý trung thành, trọn vẹn nhưng kị gặp thêm THIÊN KHÔNG, lại mang ý không trọn vẹn, không trung thành.
Cô độc tinh, cô đơn tinh.
CỰ MÔN: cuối cùng là kể đến CỰ MÔN. Một sao chủ gần và xa, gần có thể sờ mó nhau được. Và ly dị, ly thân, chia ly, chia đôi sơn hà cũng sao này. Rất kỵ gặp bộ LINH HỎA, bộ giận hờn và CỰ MÔN ưa phản đối. Làm cho bao lần mối lái chẳng xong mối sầu.

               8.5.  NGUYÊN TẮC LUẬN ĐOÁN VỀ TÍNH CHẤT CÔ ĐỘC

Nguyên tắc1: Khi Mệnh có 2, 3 sao kể trên tụ tập mới kết luận có tính cô độc.
Nguyên tắc 2: Khi Mệnh có cô độc tinh, cung nào bị cô độc tinh xâm phạm thì có liên quan đến cung ấy mà thôi.
Ví dụ: Mệnh có cô độc tinh, VŨ SÁT gia thêm LINH. Phụ Mẫu lại có CÔ QUẢ dễ bị mồ côi cha mẹ sớm. Cung Tử Tức có thể bị ảnh hưởng ít nhiều vì Phụ và Tử giao hội.
Đoán tình cảm trai gái cần nắm các sao SÁT, PHÁ, CỰ MÔN cho vững.
Ai mất là THẤT SÁT, ai bỏ là PHÁ QUÂN. Ai ly dị xa cách là CỰ MÔN.
Ai được là THẤT SÁT, ai gắn bó là PHÁ QUÂN, ai gần gủi sờ mó được nhau là CỰ MÔN. Các sao Cô đơn, nhóm KỴ HÌNH, KHÔNG KIẾP gây rối ren, nhóm HỎA LINH gây giận hờn. Khi biết như thế có thể sửa sai số phận.


                                                                                                                                                                           PHẦN 9          
THỊ PHI TINH

Nhóm thị phi tinh bao gồm các sao kể dưới đây
CỰ MÔN: Chủ phản đối
THIÊN PHỦ: chủ phê phán, nhận xét, phán xét từ đó cũng sinh ra chuyện.
THIÊN CƠ: Chủ cật vấn tra xét, cơ quan điều tra bằng lời. Những câu hỏi gây khó chịu cho CỰ MÔN là chính.
HOÁ KI: đố kị, nghi ngờ.
THIÊN HÌNH: chủ sự bắt bẻ
THÁI TUẾ: Ngôn ngữ
BẠCH HỔ: Chủ bày tỏ, từ bày tỏ nhẹ nhàng bằng lời đến hùng hổ, từ nói có thể qua vết đơn thơ tố cáo.
QUAN PHÙ: Chủ quan điểm
THIÊN HƯ: Chủ dối trá. Dễ bị sự thật phía bên ngoài phơi bày.
BÁC SĨ: Bài bác, bài xích nạn nhân của nó là PHI LIÊM
PHI LIÊM: Mạ lỵ, chưởi bới, sai trái nạn nhân của nó là BÁC SĨ
HỒNG LOAN: Loan báo đến scandal.
ĐÀO HOA: ham vui ưa vẽ chuyện.
THANH LONG: Thanh minh, khi thanh minh tức là có vấn đề. Đây là ngôi sao từ tuyên bố, tuyên ngôn, tuyên cáo, bị tuyên.
BỆNH PHÙ: Phù là phùng mang trợn mắt ra đối với THANH LONG bên ngoài. Vì bên cạnh luôn luôn có sao bài xích là BÁC SĨ.
ĐỊA VÕNG: Chủ vu từ vu thêm cho vui, như thêm mắm dặm muối đến vu cáo.
ĐƯỜNG PHÙ: hoang đường, bịa đặt, ngọt mật chết ruồi. Rất kỵ gặp THIÊN HƯ TUẾ PHÁ. Đã hoang đường lại thêm láo. Cũng như nhóm HỒNG ĐÀO làm tăng lên, phóng đại rất là nhanh.
Trên là các sao Thi Phi tinh. Cầm đầu nhóm sao này là CỰ MÔN ưa phản đối để cho biết có tui đây. Vị vua thứ ba trong TỬ VI.
Các sao trên dễ gây sự thị (phải) phi (trái). Giữa thật (THÁI TUẾ) và dối (THIÊN HƯ TUẾ PHÁ).
Không có gì khổ bằng những người thuộc nhóm sao chân thật đụng đầu nhóm sao giả dối.
Nhóm sao giả dối lại ưa nhóm sao ĐÀO HỒNG (ba hoa thêm cho vui). Nhóm ĐÀO HỒNG ưa tạo chuyện, cũng khoái gặp nhóm hư hao (tức là nhóm THIÊN HƯ TUẾ PHÁ).
Nhưng không dễ sợ bằng nhóm không cãi cọ lôi thôi, mất thời gian, phí lời là nhóm SÁT PHÁ THAM và TỬ VŨ LIÊM. Chính xác là SÁT PHÁ và TỬ VŨ. Một bên sẵn sàng đập phá và một bên dùng vũ lực hành động nói chuyện.
Với THẤT SÁT PHÁ QUÂN những “va chạm” do đi” sát” với nhau, người chạm người, xe chạm xe. Hoặc “va chạm” bằng ánh mắt, các THẤT SÁT, PHÁ QUÂN hung hăng như bọ xít trên đường phố (nhưng nhút nhát như cấy ngoài mặt trận) sẵn sàng đấm đá nhau, đâm chém nhau vô cớ. Ở ngoài mặt trận đối phương thấy là chết, đừng có hỏi tại sao mầy dám nhìn tao, cả đống sừng trên đầu cũng không dám. Cũng đừng đem vũ khí ra dọa, ai cũng có trong tay, họ đang nhắm thẳng vào mình. Các chiến binh dũng cảm luôn luôn suy nghĩ nên hay không nên. Nhưng TỬ VŨ có hành vi sai trái trong xã hội không thiếu gì (người tử tế rất là hiếm),sẵn sàng hành động bạo lực khi cần. Đường phố là nơi có khán giả đứng xem, ngoài măt trận thì không. Có quay phim mặt trận toàn là cảnh dựng lại mà thôi.


                                                                                                                                                                         PHẦN 10        
TỘI LỖI SAI TRÁI

Bao gồm các sao được kể dưới đây
LƯU HÀ: chủ lỗi, có lỗi, phạm lỗi. Lỗi là chuỵện rất dễ xảy ra. Nào là lỗi chính tả, văn phạm, ra đường dễ gặp lỗi khi giao thông, giao tiếp cũng dễ gặp phải lỗi vì tính cách mỗi người mỗi khác nhau, với ta cho là không có lỗi nhưng với họ lại cho là có lỗi... Vì thế cần xa lánh các sao THIÊN HÌNH chủ bắt bẻ, nếu gia thêm KỴ từ lỗi chuyển qua vi phạm. Vì thế nếu gặp phải các sao cùng nhóm, từ lỗi có thể bị kết luận cố ý gây ra lỗi.
CÔ THẦN: chủ tội, có tội, phạm tội, cố ý. Cố ý nặng tội hơn có lỗi. Bạn chỉ kết luận điều này khi đi với các bộ sao KỴ HÌNH
PHI LIÊM: Chủ sai trái, biết sai cứ làm. Tùy thuộc vào chính tinh để luận, như đi với TỬ VI hành vi sai trái, với CỰ MÔN chủ phản đối sai trái, Với LIÊM TRINH là trái với đạo đức… Từ đó, đi với HÌNH mang ý trái với pháp luật. Có them Kỵ là phạm pháp.
BỆNH PHÙ: Chủ làm hại. Nó là sao tiếp tay làm hại, nối giáo cho giặc, vạch đường hươu chạy, trợ giúp một cách tai hại. Tức là cũng thuộc nhóm sao trợ giúp nhưng… trợ giúp tai hại.
Quên buồn ư? Rượu đây uống đi. Quên sầu ư? Ma túy đây dùng đây lên mây tượng tượng… là vua là chúa. Muốn chết ư? Tàu lửa gần đây lăn vô chết tuyệt đối…. Tất cả những cái đó là trợ giúp tai hại. Xem cái này hay lắm, xem xong là thứ đầu độc bằng văn hóa. Uống cái này tốt lắm. Uống xong mình không chết, tất có người rút được kinh nghiệm uống cái đó không chết. Nếu mình bị gì thì cũng có người rút ra 1 kinh nghiệm khác.
Các hành vi bán thuốc độc, thuốc ngủ, thuốc vô tác dụng, thuốc dỏm… vô tình hoặc cố ý làm hại người khác. Tất nhiên cũng có lúc vô tình thôi. Từ đó dễ bị xúc phạm và sỉ nhục do sự vô tình hay cố ý làm hại mà nên. Nỗi sỉ nhục khi vô tình làm hại một người thậm làm hại đến thanh danh, đất đai của tổ quốc. Vì sao BỆNH PHÙ dễ đồng cung với QUỐC ẤN, từ đó ta có những cụm từ làm hại tổ quốc, bán nước hại dân, làm nhục quốc thể, làm xấu hổ cả quốc gia dân tộc. Và cứ thế BỆNH PHÙ vô tình (hay cố ý) phùng mang trợn mắt, ta gọi là phù, là sưng mặt, sưng miệng lên giải thích.
Đi với CÔ THẦN cố ý làm hại, có tội do làm hại. Thấy người khác sai, đi vào nơi nguy hiểm cũng mặc kệ nó. Cũng là cách làm hại. Tạo điều kiện để người ta phạm pháp, hoặc ẩu đả… cũng là cách làm hại. Mua bán gian dối, chế tạo đồ dỏm, kém chất lượng... cũng là hình thức làm hại.
PHI LIÊM: là sao chủ sự sai trái, biết sai vẫn làm, trái với đạo đức nằm trong nhóm tội lỗi sai trái. Rất kỵ đi thêm với nhóm TANG HƯ KHÁCH
Một số tuổi PHI LIÊM thường lục hội, hay nhị hợp với KÌNH DƯƠNG (các tuổi Âm như Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý). Một sao chủ trái lại thêm một sao chủ ngược ám trợ cho nhau. Cho nên cả 2 sao dễ mang chung 1 tên là: “trái ngược chưa kìa”.  Điều này do LIÊM là chủ chính đáng mà Phi có nghĩa là trái với chính đáng, vì thế có tính bất chính, luôn luôn bị BÁC SĨ (kẻ bài xích) phản đối từ bên ngoài. Cần sự cứu giải của PHƯỢNG CÁC hoặc KHÔI VIỆT, nhưng đi với KHÔI VIỆT có tính bất ngờ rất là lớn.
THẤT SÁT: Chủ sai lầm, cần so sánh sai trái với sai lầm.
Ta đánh giá tội, lỗi, sai trái, sai lầm khi có KỊ HÌNH bộ sao chủ vi phạm, phạm phải điều cấm kị, cấm đoán. THẤT SÁT cầm đầu nhóm sao này rất kỵ gặp các cao vừa kể ở trên. THẤT SÁT là sao dễ xảy ra sai lầm do quan sát không tốt. Cả ngàn THẤT SÁT mới có THẤT SÁT có tài quan sát. Đó là trường hợp THẤT SÁT đi với QUYỀN và TỬ VI.


                                                                                                                                                                         PHẦN 11        
DÂM TINH

Nhóm dâm tinh gồm các sao DIÊU, ĐÀO, HỒNG, CÁI, MỘC, XƯƠNG KHÚC.
THIÊN DIÊU: chủ nhà chứa đĩ. Chủ sự mù quáng. Nhất là các cách DIÊU XƯƠNG, ĐÀO DIÊU…
“XƯƠNG DIÊU đáng sợ thay là. Ấu nhi tuổi đã bôn ba dâm loàn”.
Vì thế sao XƯƠNG còn có tên riêng là HOA, sao VĂN KHÚC có tên riêng là SỨ.
“ĐÀO DIÊU số gái ai hay. Chồng ra khỏi ngỏ dắt ngay trai vào”
Chủ sự mù quáng ham vui.
HOA CÁI, ĐÀO HOA, VĂN XƯƠNG: Con đĩ gây ra sự ồn ào, HOA CÁI là con đĩ gây ra sự ồn ào xin xỏ, giá cả… đại loại là thế. VĂN XƯƠNG như ả đào, geisha của Nhật, như Thúy Kiều. Các tác phẩm nghệ thuật thường viết về trai gái, khi đọc thường gợi trong lòng những ý tưởng không hay.
MỘC DỤC: chủ tắm gội nhưng sự tắm gội thái quá tất có vấn đề. Khi tắm gội có sự va chạm vào thân thể từ đó phát sinh dâm tính.
Các sao VĂN thật ra không phải dâm tinh hoàn toàn thuần tuý Văn Tinh nhưng nó chủ sự nghe, nghe theo đi với dâm tinh ưa nghe, xem văn thư đồi truỵ… từ đó dễ hư hỏng.
HỒNG LOAN THIÊN HỈ: thuần tuý là Hỉ Tinh nhưng đi với Dâm tinh là cái vui tìm thấy nơi trai gái. Đi với NHẬT NGUYỆT chủ sự trăng hoa. Đi với KÌNH ĐÀ lại càng xấu. Vì thế HỒNG HỈ đi với nhóm LỘC TỒN hay hơn. Máu dê là HỒNG KÌNH, hay HỒNG THAM.
THIÊN CƠ: chủ cơ thể đi với Dâm tinh chủ cơ thể đòi hỏi.
THIÊN TƯỚNG: chủ sự thương yêu, đi với Dâm tinh chủ có tình yêu trai gái. Còn chủ ưa xem bậy bạ.
LIÊM TRINH, THAM LANG: Cả hai sao này bị đánh giá là ĐÀO HOA thứ hai. Vì LIÊM TRINH mang ý liếc gái, nếu là trai. THAM LANG mang ý ham muốn bọn con trai.
Bộ TỬ PHÁ THAM: ba sao này giao hội với nhau chủ dâm. Vì nó chủ sự ham muốn kín đáo.
Khi luận đoán không nên đi sâu vào vào dâm tính. Chỉ nghiên cứu cho biết mà thôi. Dễ bị cái lắc đầu không đúng, không phải ai cũng dễ dàng thừa nhận điều ấy. Nhờ có dâm tính bản năng của con người phát triển nhiều như ngày hôm nay.
Sự phát triển của IT khiến các dâm tinh hoạt động càng mạnh mẽ hơn. Một cái click chuột quá dễ, so với vác mặt mo vào các cửa hàng bán văn thư đồi trụy. Và cũng dễ làm tan nát bao nhiêu gia đình. Các ĐÀO HOA tự tạo ra tai họa cho mình rất là nhiều, nếu như có KHÔNG KIẾP KỴ HÌNH. Đào hoài mà Không thấy gì cả. Dễ gặp bên ngoài ba Hoa dù KHÔNG có gì cả.


                                                                                                                                                                         PHẦN 12        
CÁC CON VẬT TRÊN LÁ SỐ TỬ VI

Nghe có vẻ lạ nhưng các con vật trên TV lại rất thật và rất gần gủi với chúng ta.
THIÊN MÃ: Là con ngựa, ngày xưa là phương tiện đi lại rất thông dụng, ngày nay hiếm hoi ta mới gặp ở ngoài đời, chỉ gặp nó trên màn ảnh. Ngoài đời thật biến hóa trở thành xe cộ và cho dù hiện đại đi mấy nữa, bất cứ phương tiện gì cũng được điều khiển bằng tay chân.
LỘC TỒN: là các con trâu, bò, huơu, nai, lợn… nói chung là các con vật có móng guốc, loài ăn cỏ, ăn chơi mà làm thật. Nuôi dưỡng nó sinh lời và chính nó là tài sản, là thực phẩm khi cần thiết. Vì thế LỘC TỒN không bao giờ đói. LỘC TỒN là con trâu bò ở trong cái chuồng, đó là con vật đem lại tiền của, sức kéo cho nhà nông, nhà chăn nuôi. Rất thích hợp với bộ Phủ Tướng là thế. Vì bộ sao này giỏi chăm sóc. Việc được ăn thịt (bò, heo…) đối với 1 số người là niềm hạnh phúc. Nhưng tùy nơi (như trong tù) và tùy thời (thời kỳ kinh tế khó khăn). Dưới thời bao cấp, 1 tháng bán thịt chỉ 1 lần, một người chỉ 1 vài lạng gì đó thôi. Với dân thường khi có khi không.
HỒNG LOAN: là con chim, con gà, con vịt…nói chung là gia cầm, loài biết bay. Nói chung là những con vật nuôi có tiếng hót, tiếng gáy. Đối với người chăn nuôi nó đem lại nguồn sống, còn giúp con người có thêm 1 số nghề nghiệp liên quan như: Nghề nuôi chim cảnh, quán ăn có liên quan đến gia cầm… giúp một số họa sĩ, nhạc sĩ sáng tác ra những tác phẩm lấy chim chóc làm đề tài. Cho nên chúng ta không nên lấy làm lạ vì sao có các bức tranh hoa điểu (chim và hoa) nổi tiếng vì chim luôn luôn đi với hoa bướm cảnh mới sinh động. Và trên Tử Vi 2 sao này luôn luôn có 1 vị trí tam hợp hay đồng cung. Chúng ta hoàn toàn vui mừng (tức THIÊN HỈ) khi hoa nở và có bầy chìm nhỏ ríu rít, làm cho cuộc sống thanh bình hạnh phúc. Nhưng việc nuôi chim nhốt trong lồng là một việc không nên làm, ai cũng muốn tự do, nó cũng thế. Nuôi cá thì được nuôi chim thì không, những con chim nhốt trong lồng khi thả ra nó không bay nổi. Tạm thời nghe tiếng… chim ảo
THANH LONG: là con cá, thật sự là con cá khi nó lội trong nước LƯU HÀ. THANH LONG là con vật có mình dài như loài bò sát, đi với KIẾP SÁT là rắn rít, trăn, cá sấu… THANH LONG có khi là con giun đất (con trùn) một con vật chui nhủi dưới mặt đất, là thức ăn lý tưởng của bọn HỒNG LOAN (tức là chim). Bây giờ con chim ăn con cá tất bạn không lạ. Đó là HỒNG THANH cách. Con cá sấu có thể xơi tái con chim chứ chẳng không. Từ THANH LONG ta lại có ngư dân tức là nhóm SÁT PHÁ THAM. Rồi lại có người sinh ra hợp với những nghề buôn bán cá, đến nghề nuôi cá cảnh, quán ăn chỉ liên quan đến các món ăn sông nước. Đa phần chúng ta là người ăn cá và một hôm hạn ngộ THANH LONG đem lòng yêu cá cảnh.
BẠCH HỔ: đích thị là con cọp, nổi lo toan của nhiều cư dân khi sống gần những nơi hoang vu gần núi rừng và của những kẻ đi rừng. Nhưng ngày nay người nhiều cọp ít. “Cọp Khánh Hòa Ma Bình Thuận”, giỏi lắm chỉ còn là thành ngữ, vào Khánh Hòa gặp cọp người thì có, cọp thiệt chắc chắn rằng không. BẠCH HỔ biến hóa thành beo, mèo loài có vuốt, chó loài có cái mỏm chực cắn. Và BẠCH HỔ luôn luôn xung với TANG MÔN lấp ló ngoài kia, sẵn sàng lên tiếng báo động.
TỬ VI thừơng chọn tối đa 5 đối tượng mà thôi. Đó là 5 con vật với các biến hóa ngoài đời, thiên hình vạn trạng. Vào Thân Mệnh. LỘC TỒN chủ sự tồn tại, THIÊN MÃ chủ tay chân các sao còn lại như BẠCH HỔ, THANH LONG, HỒNG LOAN là tình cảm thái độ khi cần bày tỏ. Chúng ta thường thấy nó ở cung Thân Mệnh và một số người lấy đó làm nghề và một số lấy đó làm nghiệp…
Các con vật đi với Sát tinh KỴ HÌNH, có thể mang lại tai họa cho chúng ta.


                                                                                                                                                                         PHẦN 13        
NHÓM SAO CHỦ SỰ BẤT NGỜ

Nhóm sao chủ sự bất ngờ gồm các sao: CỰ MÔN, THẤT SÁT, THIÊN KHÔNG, LINH TINH, PHI LIÊM, LƯU HÀ, CÔ QUẢ, ĐƯỜNG PHÙ.
CỰ MÔN: Chủ chẳng ngờ có vậy mà phản đối, ly tán, chia ly, đi xa.
THẤT SÁT: Chủ sự thất kinh liên quan đến sự mất và được. Không ngờ bị mất, không ngờ mà đượ.c
THIÊN KHÔNG: Chủ không ngờ, cái mà ta tin tưởng nhất không thể xẩy ra thì nó lại xẩy ra. Đứng hàng đầu làm chủ nhiều sao bất ngờ, không ngờ, không lường trước được.
LINH TINH: Bất ngờ đến rụng rời chân tay tưởng chừng như trời đất sụp đổ. Một tin tức không may, một lịnh lạc không
mong đợi.
PHI LIÊM: Chủ bất ngờ thiên về thị phi tự nhiên từ đâu bay đến, tự nhiên vô cớ cải cọ. Nó cũng hoàn toàn bất ngờ từ đâu mà đến không biết một dị vật rơi trúng ta một hòn đá, một nhát dao, một viên đạn cho đến một HOẢ tiễn to đùng, quả bom ngàn tấn. Chủ bất ngờ từ cao, xa giáng xuống vì vậy kị gặp THIÊN VIỆT kết thành bộ PHI VIỆT kị gặp thêm LINH, LINH VIỆT chủ bị sét đánh, tai hoạ giáng xuống, đi với HOẢ LINH HÌNH tai hoạ do súng đạn, pháo, bom từ cao xa giáng xuống.
LƯU HÀ: Hà cớ vì sao? là một dấu hỏi to đùng. Nó thất lạc ở đâu? Nó còn hay mất? Tại sao tôi phải đi? Tại sao lại giữ tôi lại? Ủa chỉ thế mà đổ máu? LƯU HÀ là ngôi sao gây bất ngờ vui buồn tuỳ thuộc vào Hung Cát tinh tụ tập để luận đoán. Nhất là khi gặp THẤT SÁT, CỰ MÔN, THIÊN KHÔNG, PHI LIÊM...tính bất ngờ rất mạnh mẽ.
CÔ QUẢ: có tính bất trắc. Như vô tội chuyển qua có tội, có tội chuyển thành vô tội. Đáp số đó tùy thuộc vào Hung, Cát tinh diễn biến phức tạp. Cũng sự cố đó nhưng trước thời điểm ấy là vô tội nhưng sau thời điểm ấy là có tội. Nơi nầy xử có tội, nơi khác xử vô tội. Với người nầy “Như thế là tội ác” nhưng với người khác “Như thế đâu phải là tội ác”.
ĐƯỜNG PHÙ: Thể hiện tính chất đường đột, đột ngột đây là một động thái dễ gây xúc phạm bất mãn kẻ khác.


                                                                                                                                                                         PHẦN 14        
NHÓM SAO TRỢ GIÚP

Nhóm trợ giúp gồm các sao: THIÊN TƯỚNG, PHÙ TRÌ, BINH TƯỚNG, TẢ HỮU nhưng mỗi sao mang một ý khác nhau.
THIÊN TƯỚNG: vì thương mà ra tay che chở trợ giúp, có khi không ra mặt. Trượng nghĩa mà hành động.
PHÙ TRÌ: vì cùng quan điểm, thái độ nên trợ giúp bằng lời nói hoặc thái độ. Bằng hành động có tính thuận tiện như quá giang, quá đò, cho đi ké, đi nhờ... vì thuận đường.
TƯỚNG BINH: cũng như THIÊN TƯỚNG vì thương yêu mà trợ giúp không hề khó nhọc.
TẢ HỮU: là bộ trợ tinh chủ trợ giúp, nâng đỡ, bên trái nâng bên phải đỡ. Chủ trợ giúp nói chung phù thịnh không phù suy, bên nào mạnh thì giúp, vì thế tính chất phức tạp của bộ sao này lên rất cao khi có hung, cát tinh. Mệnh có bộ sao này có thể đi qua hạn KHÔNG KIẾP tương đối dễ dàng.
TẢ HỮU là một bộ sao có nét độc đáo vì là trợ tinh. Đi với bất cứ Chính tinh nào cũng hay và Bàng Tinh cũng vậy. Cho nên có câu:
“TẢ HỮU ái nhập mộ cung nhược phùng Đế tượng, Văn đoàn, Võ cách. Hoạnh phát danh tài”.
Nhưng chính tinh cần thiết phải có TẢ HỮU mới hay là TỬ VI, THIÊN PHỦ và thứ 3 là THIÊN TƯỚNG cần HỮU BẬT.


                                                                                                                                                                         PHẦN 15        
CHUYỂN ĐỘNG, ĐI LẠI

CỰ MÔN: chủ cự ly khoảng cách đi xa nhất là có LONG HÀ PHI (rồng chuyển) và PHƯỢNG MÃ KHÁCH (ngựa cất vó). Tuy nhiên sao này nếu gặp KỴ nhất là KỴ ĐÀ dễ bị gây trở ngại do bộ sao này gây ra. Trường hợp bị uy hiếp, ép buộc mà đi (đi với tính chất bị xua đuổi…)
VŨ KHÚC: chủ dấu vết người đi xa để lại, như dấu chân trên cát, chứng tỏ người đó đã đi xa rồi, tất nhiên phù hợp với nhóm 2 nhóm sao kể trên.
THAM LANG và THIÊN ĐỒNG: 2 này luôn luôn nhị hợp nhau. Có một chi tiết giống nhau THAM LANG thường cùng tham gia, tham dự, tham quan… và THIÊN ĐỒNG cùng với ai đó làm gì, và đi có tính tập thể hay vì công việc chung nào đó. Vì thế 2 sao này thường được đi nhờ, đi theo nhất là khi gặp 2 nhóm sao chuyển động kể trên.
Bộ LONG HÀ PHI: bộ rồng chuyển vì Thanh Long là con ròng, LƯU HÀ chủ sự chuyển động, Phi chủ sự bay. Gọi rồng chuyển nghe hay ho, ấn tượng phải không. Thực chất chủ thu xếp hành trang để đi lại. Như câu: Đây gói hành trang xếp lại cho tròn để anh đi nhé….
Bộ ĐÀO HÀ TRIỆT: cố định, lưu động, hàng năm, tháng, ngày bộ sao này luôn luôn xuất hiện khi không hình thành bộ LONG HÀ PHI (hoặc khi hình thành). Ta thấy bộ sao này tự mình gây ra sự chuyển động. Hiện tại tháng Canh Ngọ bộ sao xuất hiện tại cả 3 cung Hợi Mão Mùi. Kích thích sự chuyển động của khá nhiều người, dĩ nhiên nó mạnh hơn nếu tại đây là Tiểu Hạn, hay Đại Hạn là Thiên Di cung. Và còn mạnh hơn nữa khi tại đây có các chính tinh ưa động như CỰ MÔN, VŨ KHÚC, THAM LANG, THIÊN ĐỒNG.
Bộ ĐÀO HÀ TRIỆT còn mạnh thêm khi có bộ KHÔI VIỆT hội họp. Như vậy Mùi cung mạnh nhất.
Bộ PHƯỢNG MÃ KHÁCH: là hình ảnh một người khách ngồi trên mình ngựa (xe) đang chuyển động. Bộ sao này lệch pha với bộ Long Hà Phi. Khi 2 hạn chiếm lĩnh cả 2 bộ sao này tính chuyển động rất mạnh, hoặc một hạn có bộ sao này cung Thiên di có bộ sao kia.


                                                                                                                                                                         PHẦN 16        
MỘT SỐ NHÓM SAO QUAN TRỌNG KHÁC

           16.1.  BỘ SAO CHỦ TÀI NĂNG TÀI BA

Nổi bật nhất của nhóm sao tài năng, tài ba là VŨ KHÚC. Hay nhất là cách NHỊ KHÚC tức gặp thêm VĂN KHÚC. Nói chung mỗi chính tinh điều có tài năng riêng, chỉ có VŨ có tính đa tài các sao được đánh giá là giỏi, khéo đứng sau VŨ là: THAM LANG, THIÊN LƯƠNG, THIÊN CƠ, ĐÀO HOA.

           16.2.  NHÓM SAO LÃNH ĐẠO

TỬ VI: Chủ gánh vác, trách nhiệm, lãnh đạo.
PHÁ QUÂN: Cầm đầu.
CỰ MÔN: Người cầm đầu lớn nhất trong một tổ chức.
PHÁ QUÂN là kẻ cầm đầu thuộc nhóm SÁT PHÁ THAM, so sánh với TỬ VI là kẻ lảnh đạo, bên cạnh PHÁ QUÂN luôn có THAM LANG tham gia thì TỬ VI luôn có THIÊN TƯỚNG sẵn sàng tương trơ. CỰ MÔN cầm đầu nhóm CƠ NGUYỆT ĐỒNG LƯƠNG ưa gặp THÁI DƯƠNG

           16.3.  NHÓM SAO CHỦ CÙNG VỚI AI LÀM VIỆC GÌ

THIÊN ĐỒNG: là đồng minh của ai đó, luôn luôn kề cận với ai đó. Bên cạnh THIÊN ĐỒNG thường có 1 người, bạn bè, anh em con cái để trò chuyện.
THAM LANG: là kẻ tham gia, kẻ tham chiến nhưng nhất thiết không phải có người bên cạnh như THIÊN ĐỒNG.
THIÊN TƯỚNG: luôn luôn có một đối tượng để làm việc, có thể là đối tác, địch thủ, hoặc kẻ mình thương để công việc tiến hành. Từ đồng minh chỉ có với THIÊN ĐỒNG. THAM LANG với THIÊN TƯỚNG chỉ dùng từ có thể. Đó là nét so sánh của 3 sao ĐỒNG, THAM, TƯỚNG. Khi Hạn hay Mệnh đứng ở 1 trong 3 sao nầy, Hạn đến 1 trong 3 sao kia tính chất đồng minh, tham gia, tương trợ rất mạnh.

           16.4.  NHÓM SAO CHỦ PHƯƠNG VỊ

Trên lá số TỬ VI cho ta các phương vị. Nếu đem ra áp dụng làm dồi dào phần luận đoán.
TUẦN: chủ bên trong, ở giữa. TRIỆT chủ bên ngoài.
ĐÀ LA: chủ sau, chủ bên dưới, bề ngang
KÌNH DƯƠNG: chủ trước, bên trên, bề cao
TẢ PHÙ: chủ bên trái.
HỮU BẬT: chủ bên phải.
Từ nhưng phương vị đó áp dụng linh hoạt trong luận đoán, cũng như chọn lựa hướng phát triển, bố trí, chọn lựa chỗ ngồi, nhà cửa cho thích hợp và thuận lợi.
Hướng nhìn trong Tử Vi là nhìn vào trung tâm nơi thiên bàn lá số (nơi viết tên tuổi).
Ví dụ Mệnh tại Sửu, nếu giáp TẢ HỮU, TẢ nằm bên cung Phụ, HỮU nằm bên cung Huynh thuận lý hơn. Ngược lại HỮU BẬT nằm ở Phụ và TẢ PHÙ nằm ở HUYNH rõ ràng bất hợp lý. Công việc trợ giúp không đắc lực. Vì TẢ PHÙ thiên về trợ giúp bằng lời, HỮU BẬT thiên về dùng sức. Nằm trái khoáy như thế bậc cha ông lại dùng sức, anh em lại dùng lời, phát huy tác dụng không cao.
Nếu Mệnh Thân Đại Hạn đóng tại cung Mùi, tức nhìn vào thiên bàn có nghĩa, bên Tả là các cung tam hợp tại Hợi và cung Thân. Bên Hữu là cung Ngọ và tam hợp của nó là cung Mão.
Nếu thấy bên Tả hay bên Hữu có KHÔNG KIẾP KỴ HÌNH phía bên nào dễ nguy hiểm cho Mệnh Thân phía ấy. Ta cần tránh phía ấy.
Nếu Mệnh Thân Hạn tại Thìn Tuất, ta sẽ có TẢ HỮU xung chiếu nhau, TẢ nên nằm trong, HỮU nên nằm ngoài.
Mệnh Thân Hạn nằm ở các cung Mão Dậu Tị Hợi ta sẽ gặp trường hợp TẢ HỮU nằm về một phía. Phía nào có TẢ HỮU nên nhắm về phía ấy.
Ví dụ: Nên đi hướng nào đây trước ngã ba đường. Ta nên chọn hướng bên nào nào có TẢ HỮU. Nếu không có TẢ HỮU, không xác định được phương vị nên chọn bên có cát tinh.

           16.5.  NHÓM SAO CHỦ NHÀ

CỰ MÔN: chỉ cửa chính, lớn, trước.
TANG MÔN: chỉ cửa sau, cửa phụ. CỰ MÔN gặp TANG MÔN là cách LƯỠNG MÔN.
THIÊN LƯƠNG: chủ đòn nóc
THIÊN CƠ: chủ nền tảng, nền móng.
THIÊN PHỦ: nhà lớn
VŨ KHÚC: mái hiên.
THÁI ÂM: thềm trong
THÁI DƯƠNG: thềm ngoài

           16.6.  NHÓM SAO CHỦ LỰA CHỌN

THIÊN TƯỚNG: chủ chọn lựa, thiên về chọn người để trợ giúp, để thương yêu, ủng hộ…
TƯỚNG QUÂN: cũng chọn lựa như trên thiên về như kiểu tìm minh chủ để tôn thờ, một đối tượng để thương yêu quấn quit, gần gủi họ.
ĐÀO HOA: tính chọn lựa của ngôi sao nầy rất mạnh mẽ, từ đãi cát tìm vàng đến tìm người, đến tuyển chọn thơ văn, đến tuyển lựa ca sỹ… đến tìm một lối đi, đến công việc để làm, đến miếng ngon để gắp miếng xấu để người. Nhưng chắc gì ĐÀO HOA chọn được cái tốt, lại chọn phải cái xấu, chọn tai chọn họa, chọn xấu chê tốt, chọn sai chê đúng, chọn giặc mà chơi, chọn thù làm bạn. Trong khi mọi người ai cũng biết y là kẻ thù lại có một ĐÀO HOA nào đó cho rằng y là bạn, lại có kẻ chọn SIDA đem về nhà… thật ngao ngán lòng. Chủ đề là may mắn và chọn lựa.
MAY MẮN và CHỌN LỰA= THIÊN LƯƠNG + ĐÀO HOA.

           16.7.  NHÓM SAO CHỦ TƯƠNG ĐƯƠNG

THIÊN TƯỚNG, PHÁ QUÂN. THIÊN ĐỒNG

           16.8.  NHÓM SAO TIN TỨC

THIÊN ĐỒNG là ngôi sao đứng hàng đầu làm chủ nhóm sao tin tức, loan báo như HỒNG LOAN, Song HAO phối hợp với ngôi sao THÁI ÂM là âm thanh. 

           16.9.  NHÓM SAO CHỦ THỌ

THIÊN LƯƠNG: phần nhiều người có THIÊN LƯƠNG thủ Mệnh thường thọ cao, ít đau ốm.
THÁI TUẾ: có nghĩa là cao tuổi, người cao tuổi là đáng bậc cha ông, người có sao này lên bậc cha ông rồi mới chịu chết.
TẢ PHÙ: khi đi với Cát tinh, nhất là có KHÔI VIỆT. TẢ PHÙ là lời phụ giúp của bậc trên, cho nên có tính thọ để trở thành bậc trưởng thượng. Đi với KHÔI VIỆT đã thọ đi với QUẢ TÚ càng hay, mọi người thân thích bạn bè chết hết mà mình còn sống.
“TẢ HỮU KHÔI VIỆT vi phúc thọ”
“TẢ PHÙ̀ ngộ cát tinh bất vi yểu chiết. HỮU BẬT phùng QUẢ TÚ tất dã trường sinh”
THIÊN PHỦ hay bộ PHỦ TƯỚNG: tuổi thọ là cách nổi bật của bộ sao này. Đa phần những người này tuổi thọ rất cao vì THIÊN PHỦ là bậc cha ông, kết hợp với các sao THAI PHỤ, THÁI TUẾ tuổi thọ càng tăng cao hơn nữa. Tất nhiên nó sẽ mất tác dụng khi ngộ THIÊN KHÔNG, vì sao THIÊN KHÔNG lúc lắc cái đầu nói rằng: Không phải như thế ạ. Ta phải dành luận theo ông THIÊN KHÔNG vậy.
CÁO PHỤ: chủ lời bảo ban của bậc cha ông, tức cùng hàm ý thọ.

       16.10.  NHÓM SAO CHỦ THỜI GIAN

THÁI DƯƠNG: chủ ban ngày, ngày,
THÁI ÂM: chủ ban đêm, chủ tháng.
THÁI TUẾ: chủ năm,
THÁI ÂM kết hợp với THÁI DƯƠNG thành bộ ngày tháng, càng hay hơn khi có THÁI TUẾ kết thành bộ Tam Thái. Tức bộ đếm thời gian, bộ lịch mà blog nào cũng có và thời gian sẽ trở thành có ý nghĩa quan trọng, thời gian là cái mất đi và không bao giờ tái tạo lại. Thời gian sẽ có ý nghĩa. Thời gian là cái đáng quý, giết thời gian là từ không nên dùng và cũng không nên phung phí thời gian. Đó cũng là một lý do vì sao các cách Âm HAO không hay.
THIÊN CƠ: chủ thời gian, thời kỳ
TUẦN: chỉ một tháng (ví dụ tuần trăng), hoặc 10 ngày. TUẦN còn chỉ một chu kỳ nào đó. Chu kỳ của địa chi là 12 năm, chu kỳ của thiên can là 10 năm. Bạn đừng đem tuần chỉ có 7 ngày của hiện tại để luận đoán sẽ đưa đến sai lầm. Tuần có nghĩa là một chu kỳ như tuần hương thắp trọn nén nhang.
TRIỆT: là bán chu kỳ không trọn vẹn, nửa chừng bỏ cuộc.
       TUẦN đi với TRIỆT chỉ 15 năm (vì Tuần chỉ 10 ngày, mà TRIÊT chỉ có một nửa mà thôi. Cộng lại ta có 15). Nếu TUẦN TRIỆT có THÁI ÂM, THÁI DƯƠNG ta có 15 ngày, có thể là 15 ngày đêm hạnh phúc, 15 ngày đêm khói lửa…

       16.11.  NHÓM SAO XIN CHO BIẾU TẶNG

HOA CÁI: chủ cho
PHƯỢNG CÁC: chủ dâng hiến
PHONG CÁO: chủ phong thưởng
ÂN QUANG: chủ ân tình mà tặng, ân thưởng…
Nhóm sao này tụ tập với nhau hỗ tương cho nhau càng mạnh. Phù hợp nhất đi với THIÊN TƯỚNG, sao này chủ thương yêu, trợ giúp, tương trợ và THIÊN ĐỒNG chủ tốt bụng, nhóm CƠ LƯƠNG chủ từ thiện.

       16.12.  NHÓM SAO TỐN KÉM

Song HAO: Thuộc nhóm sao tốn kém, tốn kém để mua sắm khi có CÔ QUẢ. ĐẠI HAO chủ tốn kém nhiều, TIỂU HAO chủ tốn kém ít, chi phí nhỏ. Các sách TỬ VI cứ xếp 2 sao nầy vào nhóm bại tinh khiến gây ngộ nhận không ít. Cứ thấy HAO cho là hao tài, chắc gì hao mà còn sung sướng vui vẻ khi mua món hàng mình thích. Chắc gì có tiền mà mua được.
Chủ sự tốn kém hao phí nhất là đi với PHÁ QUÂN, sao nầy có cũng giá trị như Song HAO.
HAO đi với ĐÀO HOA: Phí phạm, phung phí.
Điều cần phân biệt TIỂU HAO thiên về ít, không nhiều, thiếu thốn, khiếm khuyết, chưa đầy đủ đóng tại các cung còn chỉ thiếu thốn tình phụ mẫu, ở huynh đệ tình anh em, Phu Thê tình không mặn mà…. ĐẠI HAO thiên về đầy đủ, nhiều. Nhiều chắc gì đã sướng nhỉ. Vì nhiều cha lắm mẹ thêm khổ mà thôi… Cho nên Mệnh có sao ĐẠI … ẩu coi bộ hay nhất. Tới đâu thì tới.

       16.13.  NHÓM SAO CHỦ NGHE, NGHE THEO

VĂN XƯƠNG: chủ nghe theo có tính chất dài lâu. Nghe theo những điều học hỏi trong sách vở. Như: “Có trung hiếu đứng trong trời đất. Không công danh thà nát cới cỏ cây”. Từ những điều nghe theo những điều dạy bảo sách vỡ ấy hình thành nhân cách con người.
VĂN KHÚC: nghe theo một khúc thôi, một đoạn thôi và chịu ảnh hưởng về mặt nghệ thuật do đọc một cuốn sách, xem phim... rồi tìm thấy ở đó một mẫu người ta thích, chịu ảnh hưởng của mẫu người ấy...
LINH TINH: “làm theo” lịnh ai đó là.
PHỤC BINH: phục vụ cho, làm việc cho là
TUẦN: tuân theo một cách ngoan ngoãn, dễ dạy bảo.
Cho nên trong “nghe theo” có tính tự nguyện. Ví dụ “Nghe theo lời kêu gọi của non sông...”.

       16.14.  NHÓM SAO CHỦ CẮT, BỎ, ĐOẠN, TUYỆT

VŨ chủ cắt, TƯỚNG chủ nối. Cắt bỏ đi là cách VŨ PHÁ, cắt mất là VŨ SÁT, cắt rồi nối lại là VŨ TƯỚNG.

       16.15.  NHÓM SAO CHỦ ÂM THANH

ĐÀO HOA: huyên náo
HOA CÁI: ồn ào xin cho
THIÊN KHỐC: tiếng khóc
Song HAO: tru tréo, Tiếng rống to, nhỏ
THIÊN LA: tiếng oán trời
ĐỊA VÕNG: tiếng trách đất
THIÊN HƯ: tiếng thở dài
THIÊN KHỐC: tiếng khóc
HIÊN HỶ: tiếng reo vui
PHI LIÊM: tiếng phỉ báng
BÁC SỸ: tiếng bài bác
THIÊN HÌNH: tiếng bắt bẻ
HỒNG LOAN: tiếng nói to
THANH LONG: tiếng nói êm đềm
BẠCH HỔ: tiếng nói hùng hổ
CỰ MÔN: tiếng phản đối
...

       16.16.  NHÓM HÌNH TINH

Bao gồm các sao TRIỆT, HÌNH, KỴ

       16.17.  NHÓM SAO MANG TÍNH CHẤT QUAN SỰ

QUAN PHÙ: Là giấy tờ cửa quan.
QUAN PHỦ: Là cửa quan.
ĐƯỜNG PHÙ: Là công đường.
ĐÀ LA: Là bị lôi kéo đến cửa công. Bao giờ TẤU THƯ cũn có KÌNH ĐÀ hội họp.
THÁI TUẾ THIÊN HƯ TUẾ PHÁ: Bộ sao ngôn ngữ, bao giờ ra tòa cũng dùng đến ngôn ngữ. Vị trí THÁI TUẾ có tính chân thật cần có thêm PHƯỢNG CÁC vị trí THIÊN HƯ TUẾ PHÁ có tính giả dối (dễ thất bại, cần có PHƯỢNG CÁC hỗ trợ).
TANG MÔN: Là tang chứng.
THIÊN HÌNH: Là hình luật
Các sao làm tăng them tính quan trọng. Vốn tại đó sẵn có là ĐẠI HAO dễ gặp chuyện quan trọng. Nếu đi với TIỂU HAO ít quan trọng hơn nhiều có tính tiểu sự, tiểu hình. Kiểm tra xem có các sao thuộc nhóm Tầm Quan Trọng không.
Các bộ TUẾ ĐÀ chỉ Gặp các tuổi Đinh Kỷ Quí và Bính Mậu Nhâm.
Có câu:
“TUẾ ĐÀ CỰ KỴ phận nghèo.
Một thân lên thác xuống đèo không yên”.
Vì bị lôi kéo vào chyện tố cáo.
“CỰ ĐÀ TẤU TUẾ một đoàn.
Đêm ngày chầu chực cửa công mõi mòn”
Bị vướng vào vòng kiện tụng